Diễn đàn tuổi trẻ BanMe
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

50 sản phẩm công nghệ xuất sắc nhất mọi thời đại

Go down

50 sản phẩm công nghệ xuất sắc nhất mọi thời đại Empty 50 sản phẩm công nghệ xuất sắc nhất mọi thời đại

Bài gửi  wantedcool 27/06/10, 02:26 pm

Kỷ nguyên công nghệ số đã chứng kiến vô số phát minh, sáng kiến xuất sắc, trong đó có những sản phẩm đã thực sự thay đổi cuộc sống của chúng ta. Sau đây làdanh sách 50 sản phẩm công nghệ đỉnh cao kể từ khi máy tính cá nhân ra đời.



Tạp chí PC World đã bình chọn dựa trên các tiêu chí: phổ biến, có ảnh hưởng lâu dài, mang tính đột phá.



1. Netscape Navigator (1994)



Có thể Marc Andreessen đã sớm hình dung ra được "tác phẩm" của mình khi cùng tham gia viết phần mềm Mosaic tại Trung tâm Quốc gia các ứng dụng siêu máy tính. Nhưng phải tới khi Andreessen tốt nghiệp đại học vàtiếp xúc với một số nhân vật của Silicon Valley thì cuộc cách mạng web mới thực sự bắt đầu. Năm 1994, Andreessen đưa ra thị trường sản phẩm Netscape Communications, giới thiệu trình duyệt web mới của mình (dựa trên Mosaic) với thế giới. Đó làlần đầu tiên người dùng phổ thông được tiếp xúc với ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML).



Netscape làlý do khiến người ta bắt đầu ngồi lỳ hàng giờ liền với Internet, dẫn đến sự bùng nổ (vàsụp đổ) của rất nhiều website. Sự ra đời của trình duyệt này cũng dẫn đến vụ kiện chống độc quyền nhằm vào Microsoft, sau khi công ty này tích hợp Internet Explorer vào hệ điều hành Windows. Vàsự kiện Netscape phát hành chứng khoán lần đầu vào ngày 9/8/1995 được xem như sự khởi đầu chính thức của kỷ nguyên dot-com.



Tuy nhiên, Netscape đã không thể giữ mãi vị thế quán quân của mình vàbị Internet Explorer "qua mặt" vào cuối thập niên 90. Trình duyệt Netscape vẫn tồn tại dưới quyền sở hữu của AOL nhưng dần bị quên lãng vàhầu như không còn được sử dụng. Mặc dù vậy, ảnh hưởng của nó vẫn bao trùm thế giới web. Các thành phần mã nguồn nguyên thủy của nó đang làmột phần của hầu như mọi trình duyệt đang thịnh hành, từ Mozilla Firefox tới Internet Explorer (bạn có thể click Help/About Internet Explorer để kiểm chứng).



2. Apple II (1977)



Chiếc máy tính cổ - tia lửa khởi động cho ngành điện toán cá nhân

Phiên bản Apple đầu tiên (Apple I) chỉ được xem như một sản phẩm của thú tiêu khiển, nhưng Apple II đã có sự tiến bộ vượt bậc, trở thành chiếc máy tính cá nhân thực thụ. Có mặt trên thị trường trước chiếc IBM PC 5150 tới 4 năm, Apple II (vàcác "anh em" của nó II+, IIe, vàIIc) nhanh ***ng trở thành chiếc máy tính cho những người có nhu cầu tính toán thực sự. So với nó, những đối thủ cạnh tranh như Commodore vàand TRS-80 Color Computer chỉ lànhững món đồ chơi.



Sự vượt trội của Apple II bao gồm những công cụ tiện ích (làchiếc PC đầu tiên tích hợp bảng tính VisiCalc), chơi game tốt, vàcó khả năng mở rộng với 8 khe cắm expansion. Chiếc máy cũng có thiết kế rất đẹp, nổi bật so với mọi sản phẩm cùng loại, vàđây làtriết lý vẫn tồn tại trên máy tính Apple ngày nay. Có thể Apple II không phải chiếc máy tính cá nhân đầu tiên, nhưng nó làtia lửa điện đã khởi động cho toàn bộ ngành công nghiệp điện toán cá nhân.



3. TiVo HDR110 (1999)



Sự nhã nhặn của TiVo

Thật khó tin, nhưng đó làsự thật: TiVo đã xuất hiện ngót nghét 10 năm, trở thành một "lão tướng" trong thế giới công nghệ. Sản phẩm này dựa trên một khái niệm đơn giản: Thay thế băng ghi hình VHS bằng một ổ cứng dung lượng lớn để ghi lại các chương trình truyền hình. Nhờ thiết bị này, người dùng có thể tạm dừng vàxem tiếp một chương trình truyền hình trực tiếp, "tua" qua các đoạn quảng cáo vàghi lại cả serie game show chỉ bằng vài cú click của chiếc điều khiển từ xa. Với những đổi mới liên tục (hiện nay đã tới model Series3), TiVo dễ dàng đánh bại đối thủ cạnh tranh ReplayTV trong trận chiến giành thiện cảm của người dùng mặc dù vẫn rất chật vật trong việc tìm kiếm lợi nhuận vàđang có nguy cơ bị mua lại. Có thể thương hiệu TiVo rồi sẽ mất đi, nhưng cái tên này đã trở thành một động từ tồn tại mãi mãi trong từ vựng tiếng Anh.



4. Napster (1999)



Chúng ta không đề cập đến dịch vụ thuê bao có thu phí của Napster hiện nay màđang nói tới phần mềm chia sẻ file do Shawn Fanning khởi xướng. Napster từng bị lên án về việc "nối giáo cho giặc", tạo điều kiện cho nạn xâm phạm bản quyền trên quy mô lớn (60 triệu thành viên ở thời kỳ "thịnh" nhất). Tuy nhiên, công bằng ra mànói, thì nạn ăn cắp tác quyền đã xuất hiện từ lâu trước khi Napster xuất hiện vàvẫn tiếp tục gia tăng khi Napster không còn.



Napster có tầm quan trọng lớn không chỉ vì phát minh ra công nghệ chia sẻ ngang hàng (P2P) màcòn vì nó đã buộc các tên tuổi lớn của ngành công nghiệp ghi âm phải ngồi vào bàn đàm phán với các công ty công nghệ để hợp pháp hóa hành vi trao đổi file trong lĩnh vực nhạc số. Ngay cả P2P giờ đây cũng đã gần đạt được sự công nhận về mặt pháp lý, khi các công ty lớn như Warner Brothers vàParamount vừa ký kết các hợp đồng phân phối nội dung qua BitTorrent, một phương tiện trao đổi file ngang hàng đang thịnh hành, vàdịch vụ truyền hình trực tuyến Joost.



5. Lotus 1-2-3 for DOS (1983)



Chương trình bảng tính Lotus 1-2-3 làmột trong những ứng dụng quan trọng đầu tiên trên PC, vànó hầu như làđộng lực duy nhất giúp máy tính cá nhân vượt qua tất cả các nền phần cứng khác để trở thành chuẩn phổ biến cho các doanh nghiệp. Không phải ứng dụng bảng tính đầu tiên, nhưng Lotus 1-2-3 tỏ ra vượt trội rõ rệt so với đối thủ VisiCalc, vànó duy trì vị thế chuẩn mực này cho tới khi kỷ nguyên của Windows vàMicrosoft Excel trỗi dậy. Lotus chọn đối tác OS/2 để tích hợp thay vì Microsoft vàđiều đó đánh dấu chấm hết cho số phận của nó trên thị trường, mặc dù hiện nay sản phẩm này vẫn còn tồn tại trong phiên bản Lotus 1-2-3 Millennium Edition.

6. Apple iPod (2001)



Chiếc máy iPod ban đầu của Apple



Năm 2001, máy chơi nhạc bỏ túi trở nên cực kỳ phổ biến, với rất nhiều mẫu mã bán chạy giá rẻ. Tuy nhiên Apple cho rằng họ có thể làm tốt hơn. VàiPod đã thành công rực rỡ khi Apple tái phát minh chiếc máy nghe nhạc thô kệch vàthực dụng trở thành một thiết bị số thời trang vàphong cách.



Apple chiếm tới 73% thị phần của thị trường máy nghe nhạc. Đây làmột con số trong mơ, bởi đối thủ cạnh tranh bám sát nhất, Sandisk, chỉ chiếm 9% thị phần. Các sản phẩm iPod thế hệ tiếp theo tiếp tục cuộc "bành trướng" trên thị trường với các tính năng bổ sung như video vàthiết kế thanh thoát hơn, thời trang vàphong cách. Tới nay, hiện tượng iPod vẫn chưa có dấu hiệu suy giảm nào.



7. Hayes Smartmodem (1981)





Năm 1978, chỉ với 5000 USD, Dennis Hayes khai trương một công ty, màsau này được nhìn nhận làmột trong những doanh nghiệp công nghệ đáng ghi nhận nhất trong thập niên 80: Hayes Microcomputer Products. Không bao lâu sau khi thành lập công ty, Hayes tung ra thị trường sản phẩm chiến lược 300-baud Smartmodem.



Các modem thời kỳ đầu thường đòi hỏi phải có các thiết bị vàphụ kiện đi kèm khá rắc rối. Hayes đã tỏ ra nổi trội hơn tất cả với 1 thiết bị độc lập cắm trực tiếp vào giắc cắm của điện thoại bàn. Bước đột phá này tạo tiền đề cho cuộc cách mạng viễn thông vàsự bùng nổ của các website, diễn đàn trực tuyến.



Các modem cá nhân có tốc độ cao nhất là56 kilobits/ giây. Vàmặc dù sản phẩm này đã bị công nghệ băng thông rộng vượt qua từ lâu, ngày nay nó vẫn còn hiện diện trong khá nhiều hộ gia đình.



8. Motorola StarTAC (1996)





Trước khi StarTAC ra đời, điện thoại di động lànhững "cục gạch" khổng lồ đúng với nghĩa đen của nó, khiến người dùng lúng túng vàngượng nghịu. Vàrồi kỳ quan nhỏ bé này xuất hiện, chỉ nặng đúng 3,1 ounce (1 ounce = 28,3495 gram), với thiết kế vỏ sò tinh tế chưa từng có trước đó. StarTAC nhanh ***ng trở thành chiếc điện thoại di động được ưa chuộng vàduy trì vị thế đó tới nửa thập kỷ, đồng thời thiết kế của nó cũng được vay mượn trong vô số thiết bị di động cầm tay thuộc thế hệ "đàn em". Nếu bạn cho rằng StarTAC làmột "quái vật" so với các tiêu chuẩn hiện nay thì có lẽ bạn sẽ phải nghĩ lại. Sản phẩm Razr cực kỳ phổ biến của Motorola hiện nay chính là"hậu duệ" trực tiếp của StarTAC, vànó còn nặng hơn StarTAC tới 0,2 ounce.



9. WordPerfect 5.1 (1989)



WordPerfect 5.1 có lẽ làứng dụng phổ biến cuối cùng trên hệ điều hành giàcỗi DOS. Phần mềm xử lý văn bản này có rất nhiều cách tân, bao gồm menu thả, hỗ trợ bảng biểu, vàđặc biệt làchế độ Reveal Codes cho phép hiển thị tất cả các lệnh in ấn được nhúng trong văn bản, cho phép bạn biên tập chúng màkhông cần một giao diện người dùng đồ. Đã có các phiên bản WordPerfect mới hơn chạy trên nền Windows, nhưng WordPerfect 5.1 vẫn tồn tại trong nhiều năm qua, bởi nhiều doanh nghiệp, nhất làcác công ty pháp luật, tiếp tục dựa vào chúng để tiết kiệm chi phí, tránh việc phải nâng cấp lên Windows.



10. Tetris (1985)





Ban đầu, mục tiêu của hầu hết các video games chỉ làbắn hạ người ngoài hành tinh, đua xe trên một mê cung hoặc đánh bại bọn côn đồ. Không game nào trong các thể loại này đòi hỏi người chơi phải suy nghĩ nhiều màchỉ cần quen tay với cần joystick vàmột vốc tiền 25 xu làđủ. Trò chơi Tetris do Alexey Pajitnov phát triển độc lập làmột trong những game đầu tiên đòi hỏi người chơi phải động não vàsự ra đời của nó đã làm chấn động ngành công nghiệp game.



Trò xếp gạch của Pajitnov đủ đơn giản để bất kỳ ai cũng có thể bắt đầu, nhưng lại cũng đủ thử thách để giữ chân người chơi hầu như vĩnh viễn. Tetris trở thành trò chơi đỉnh cao trên rất nhiều hệ máy, từ PC tới Mac vàGame Boy (có rất nhiều người mua Game Boy chỉ để chơi Tetris). Đến nay, mặc dù đã có tuổi thọ hơn 20 năm, Tetris vẫn tiếp tục gợi cảm hứng cho nhiều biến thể mới, chứng minh rằng một trò chơi không nhất thiết phải có đồ họa lộng lẫy vàcốt truyện lắt léo mới mê hoặc được người chơi.

11. Adobe Photoshop 3.0 (1994)





Ngay từ lần đầu tiên xuất hiện trên hệ máy Macnăm 1988, Photoshop đã nổi lên như một ứng dụng được yêu thích. Nhưng nhiều năm sau công cụ đồ họa này mới trở thành phần mềm không thể thiếu với các nhàthiết kế chuyên nghiệp.



Bước ngoặt đó đến cùng với sự ra đời của Photoshop 3.0, với sự bổ sung lớp (layer), cho phép các nhàthiết kế thỏa sức sáng tạo với các hình ảnh vàhiệu ứng trên các tầng chồng lên nhau, thay vì một hình phẳng duy nhất như trước đó. Công nghệ này mở cửa cho kỹ thuật chỉnh sửa ảnh trên một mức độ lớn chưa từng có - vàđó làlý do tại sao những tấm ảnh không còn làbằng chứng đáng tin cậy nữa.



Các phiên bản mới nhất của Adobe, Photoshop CS2 vàPhotoshop CS3 tiếp tục duy trì truyền thống của phần mềm này vàvẫn tiếp tục làmột chuẩn mực trong lĩnh vực đồ họa bitmap.



12. IBM ThinkPad 700C (1992)





Trong suốt nhiều năm, chỉ có một cái tên xứng đáng được nhắc tới khi đề cập đến máy tính xách tay, vàđó chính làIBM. Mỗi lần ra mắt một phiên bản ThinkPad mới, IBM lại tiếp tục làm thị trường sửng sốt. Mỗi serie thế hệ sau lại "long lanh" hơn thế hệ trước với khối lượng nhỏ hơn, năng lực mạnh hơn, hoặc màn hình lớn hơn so với những gì từng được cho làgiới hạn tối đa. Chẳng hạn, phiên bản 701C, với bàn phím ngoài kích thước tiêu chuẩn kiểu cánh bướm mang tính cách tân đến nỗi nó được đưa vào trưng bày trong... Viện Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York.



Phiên bản mở đầu cho chuỗi thành công đó làchiếc 700C, với khối lượng dưới 6 pounds (2,7 kg), có màn hình màu TFT 10,4 inch (rất rộng so với thời điểm đó) cùng với con chuột kiểu que trỏ (pointing stick) đầu tiên.



Mặc dù ngày nay thương hiệu này đã thuộc quyền sở hữu của công ty Trung Quốc Lenovo, những chiếc ThinkPad (như dòng R60) vẫn làbiểu tượng vững chắc của vị thế trong giới doanh nhân.



13. Atari VCS/2600 (1977)





Máy chơi game Atari đầu tiên chính làtiền đề tạo nên hệ thống chơi game tại nhàngày nay. Có thể nói tất cả các máy chơi game chuyên dụng (console) hiện đại đều ít nhiều thừa kế các đặc điểm của cỗ máy có thiết kế đơn giản này. Chiếc VCS (sau được đổi tên thành 2600) thu hút được sự chú ý lớn (cho tới khi Space Invader ra đời năm 1980), với sản lượng bán ra đạt 8 triệu đơn vị chỉ trong năm 1982. Tổng số máy 2600 được bán ra đạt 40 triệu đơn vị, mở đường cho các đối thủ cạnh tranh vàsản phẩm ăn theo tiến vào thị trường máy chơi game gia đình. Có thể nói, ngoài game Pong, máy chơi game 2600 làsản phẩm quan trọng duy nhất màAtari từng phát hành.



14. Apple Macintosh Plus (1986)





2 năm sau thời điểm phát hành chiếc máy tính Macintosh đầu tiên, Apple đạt đến đỉnh cao với phiên bản Mac Plus. Dòng máy này khắc phục một số nhược điểm của thế hệ trước, trở thành một trong những sản phẩm được ưa chuộng vàsử dụng nhiều nhất của Apple. Chiếc hộp "tất cả trong một" đầy kiểu cách gồm có 1 bộ vi xử lý Motorola 68000, tích hợp 1 màn hình đơn sắc 9 inch và1 ổ đĩa mềm 3,5 inch. Nổi bật nhất trong những sáng tạo của sản phẩm là1 cổng SCSI cho phép người dùng kết nối với ổ cứng ngoài, và1MB RAM có khả năng nâng cấp lên 4MB.



Máy tính cá nhân còn được coi như một biểu tượng thời trang. Ngày nay, các máy tính iMacs đều có phong cách độc đáo, vàtất cả đều được bắt đầu từ Mac Plus. Trước đây, Mac Plus có giá 2600 USD, nhưng giờ đây bạn có thể mua một chiếc với giá dưới 100USD trên eBay.



15. RIM BlackBerry 857 (2000)



Khi tung ra thị trường phiên bản đầu tiên BlackBerry 850, hãng RIM đưa ra ý tưởng thiên tài về việc biến một chiếc máy nhắn tin 2 chiều tiêu chuẩn thành một sản phẩm có tính năng đầy đủ hơn. Chiếc 850 có khả năng gửi - nhận e-mail, cho phép người dùng nhập liệu bằng ngón cái trên bàn phím QWERTY tí hon, mặc dù màn hình hiển thị chỉ gồm 6-8 dòng văn bản khiến việc duyệt tin tương đối khó khăn.



Dòng máy BlackBerry 857 không khác nhiều so với dòng 850, nhưng hiển thị tới 20 dòng văn bản. Hình dạng thuôn dài của thiết bị cũng gợi cảm hứng cho các nhàthiết kế về một mẫu điện thoại di động. 2 năm sau, thiết bị đầu tiên kết hợp e-mail với ĐTDĐ của RIM ra đời. Vàngày nay, thiết kế của dòng máy 857 vẫn ảnh hưởng tới vẻ ngoài của rất nhiều máy ĐTDĐ thông minh (smart phone). Có thể thấy rõ nét điều đó trong sản phẩm BlackBerry 8700c đang thịnh hành.

16. Palm Pilot 1000 (1996)



Palm Pilot 1000 không phải thiết bị trợ giúp kỹ thuật số cá nhân (PDA) đầu tiên, nhưng nó làchiếc PDA mang tính đột phá. Lấy cảm hứng từ Apple Newton, Palm thiết kế mẫu thiết bị trợ giúp kỹ thuật số cá nhân tập trung tối đa vào tính nhỏ gọn, thực sự làkiểu "bỏ túi".



Mẫu ban đầu có nhiều ảnh hưởng đến nỗi cái tên Palm Pilot gắn chặt với toàn bộ các serie, dù cho hậu tố "Pilot" bị buộc phải xóa bỏ từ năm 1998 sau vụ kiện về bản quyền với hãng Pilot Pen Corporation. Nhiều đặc tính của hệ điều hành Palm nguyên thủy, bao gồm cả cách trình bày (layout) bằng các biểu tượng vẫn hiện hữu trong dòng máy Treos đang thịnh hành.



17. id Software Doom (1993)



Nếu lập luận của nhàhoạt động chống bạo lực trong video game Jack Thompson làđúng, thì hầu hết các tội ác đều có thể truy nguyên về điểm xuất phát làtrò chơi Doom, game bắn súng góc nhìn người thứ nhất (FPS) đầu tiên. Xuất hiện như một phần mềm chuyển nhượng (shareware), Doom nhanh ***ng phát tán rộng rãi sau khi phát hành. Giới game thủ phát sốt với đồ họa 3D (giờ đây đã trở nên cổ lỗ) vàkhả năng chỉnh sửa tùy biến (mod) cho phép người chơi trở thành nhàthiết kế tự tạo ra các màn chơi của riêng mình.



Có thể sẽ có người phản đối lựa chọn này vàcho rằng Wolfenstein 3D, cũng của id, mới làgame tiêu biểu mở đường cho thể loại FPS. Tuy nhiên, Wolfenstein 3D thua Doom ở chỗ nó không cho phép người chơi vung lưỡi cưa máy, vũ khí đặc sắc nhất, mang tính biểu tượng nhất mọi thời của thể loại FPS. Ngày nay, các phiên bản PC của Doom vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng những bản chơi trên máy console vàcầm tay được phổ biến rộng rãi hơn.



18. Microsoft Windows 95 (1995)



Trong số các hệ điều hành được ưa thích trước đây của Windows có thể kể tới Windows for Workgroups 3.11, Windows 98 SE, vàWindows 2000. Tuy nhiên, Windows 95 mới thực sự làmột bước ngoặt vĩ đại. Phiên bản này mang lại cho người dùng khả năng đặt tên dài cho tệp tin, đưa ra khái niệm đa nhiệm vàđặc biệt cải thiện giao diện đồ họa người dùng. Đó làthời điểm ngắn ngủi duy nhất từ trước tới nay Windows có vẻ ngoài bắt mắt hơn Mac.



19. Apple iTunes 4 (2003)



3 phiên bản đầu của iTunes chỉ đơn giản làmột tiện ích dùng để quản lý các file nhạc trên máy nghe nhạc iPod. Nhưng vào ngày 28/4/2003, Apple đã làm thay đổi vĩnh viễn thế giới đa phương tiện với việc phát hành phiên bản iTunes 4, công cụ cho phép người dùng mua nhạc từ tiệm nhạc trực tuyến iTunes Store với giá 0,99USD/ bản nhạc. Bất chấp vô số chỉ trích về hệ thống quản lý bản quyền số - chỉ cho phép chơi nhạc trên iPod vàmột số đời máy ĐTDĐ Motorola - iTunes Store đã tạo nên một chuẩn mực cho việc mua bán nhạc số trực tuyến, khởi động trào lưu từ bỏ các phương tiện lưu trữ vật lý đối với cả nhạc vàvideo. Tới nay, các bản nhạc trên iTunes Store đã được download 2 tỷ lượt.



20. Canon Digital Elph S100 (2000)



Những chiếc máy ảnh số thời kỳ đầu chẳng có gì đáng chiêm ngưỡng: Chúng to, thô kệch vàrất kém thẩm mỹ. Digital Elph đã thay đổi tất cả. Có vỏ làm bằng thép không gỉ vànhỏ tới mức khó tin, dòng máy S100 của Canon cho thấy sự tinh tế trong thiết kế của máy ảnh bỏ túi. Mặc dù vậy, các tính năng của thiết bị vẫn rất đáng nể, với độ phân giải 2.1 megapixel CCD, 1 ống zoom quang 2x vàchức năng canh nét tự động. Ngày nay, máy ảnh số vẫn tiếp tục khuynh hướng thiết kế của Elph; Các dòng máy ảnh số bỏ túi của Canon vàmodel hiện nay của Elph model, PowerShot SD630, vẫn duy trì thiết kế tổng thể của thiết bị nguyên bản.



21. Nintendo Game Boy (1989)



Hình của bài viết



Một màn hình đen trắng, một tấm điều khiển 4 hướng và2 nút hành động từng làtất cả những gì cần thiết để "hút hồn" các cô bé cậu bé hàng giờ liền.



So với các tiêu chuẩn hiện nay thì chiếc máy chơi game cầm tay Game Boy đầu tiên trông có vẻ quá đơn sơ, nhưng ở thời điểm bấy giờ thì nó làcả một kiệt tác. Qua 9 phiên bản, Game Boy trở nên càng lúc càng nhỏ gọn, trong khi thị phần của Nintendo trên thị trường máy chơi game cầm tay không ngừng mở rộng. Phiên bản mới nhất Game Boy Advance góp phần đưa sản lượng tiêu thụ vượt qua con số 188 triệu đơn vị sản phẩm, khẳng định "cậu bé game" chính làthiết bị chơi game cầm tay có tầm ảnh hưởng lớn nhất từ trước tới nay.



22. 3dfx Voodoo3 (1999)



Các tranh cãi về card video xuất sắc nhất có thể sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Nhưng chắc chắn chỉ có rất ít người phản đối ý kiến cho rằng Voodoo3 của 3dfx chính làmột trong những card đồ họa quan trọng nhất từng được sản xuất. Đáng ghi nhận nhất, vào thời điểm xuất hiện, đây làloại card duy nhất hỗ trợ các trò chơi sử dụng đa kết cấu (như Quake 3) và3dfx thậm chí còn xây dựng một giao diện lập trình ứng dụng (API) tùy biến có tên gọi Glide dành cho mục đích lập trình game của các nhàphát triển.



Voodoo3 làmột thành công lớn, nhưng 3dfx chẳng bao lâu sau bắt đầu điêu đứng. Glide không còn được trọng dụng, các sản phẩm tiếp theo đều thất bại, vàcông ty "đốt" nhiều tiền đến mức suýt bị giải thể ("xác chết" của 3dfx được nVidia "vớt") sau đó 1 năm.



23. Ổ đĩa Iomega Zip (1994)



Đĩa Zip từng được biết đến trước khi băng thông rộng ra đời, vàtrước khi đĩa ghi CD-Write trở nên phổ biến. Nếu thường phải xử lý những tệp tin có dung lượng vài trăm KB, bạn sẽ phải đầu tư một ổ đĩa Zip, thực chất làmột siêu đĩa mềm có khá năng chứa 100MB (sau đó là250MB vàthậm chí 750MB) dữ liệu. Đĩa Zip đầy lỗi kỹ thuật, đến nỗi nó từng được mệnh danh là"cú click chết ***c", nhưng trong nửa cuối của thập niên 90, người dùng thực sự không có lựa chọn nào khác.



24. Spybot Search & Destroy (2000)



Khi Patrick Kolla nhận thấy Windows trở nên quá sơ hở trước hàng loạt mối đe dọa ngày một nhiều màcác phần mềm diệt virus không phát hiện được, ông quyết định tự mình ra tay. Kết quả làsự ra đời của Spybot Search & Destroy, một chương trình diệt phần mềm độc hại (malware) miễn phí vàlànhàtiên phong trong lĩnh vực này. Spybot gây nhiều tranh cãi, nhận được sự e dè vàghen tị từ phía các đối thủ cạnh tranh (Hãng Symantec tuyên bố Spybot S&D "không tương thích" với hệ thống bảo mật Internet của họ). Mặc dù vậy, chương trình này vẫn làmột phần không thể thiếu của bất cứ bộ sản phẩm bảo mật nào.



25. Compaq Deskpro 386 (1986)



Những chiếc PC 386 đầu tiên không được xuất xưởng từ IBM, hãng nắm bản quyền của các dòng máy tính có hậu tố 86, màđến từ đối thủ cạnh tranh đang lên Compaq. Công ty này đã trở thành cái gai trong mắt IBM kể từ khi tung ra sản phẩm Compaq Portable năm 1982 bằng cách giải mã ngược (còn gọi làthiết kế đối chiếu - reverse engineer) BIOS của máy PC IBM. Tới năm 1986 thì Compaq đã thực sự vượt lên trong cuộc đua, tung ra Deskpro 386 trước Big Blue của IBM, với giá bán rẻ hơn, vàđược đánh giá cao hơn về chất lượng. Đây chính làsản phẩm đã đưa thị trường PC với sự cạnh tranh khốc liệt tiến vào kỷ nguyên hiện đại. Năm 2002, Hewlett-Packard thôn tính Compaq nhưng vẫn tiếp tục tiếp thị sản phẩm dưới thương hiệu của "cựu chiến binh" này.



26. CompuServe (1982)



Được xây dựng năm 1969, có thể nói CompuServe làhệ thống bảng tin (bulletin board) lớn đầu tiên mở ra với công chúng vàcũng làsản phẩm đáng kể nhất. CompuServe mở đường cho việc sử dụng e-mail một cách rộng rãi từ năm 1978 vàgiới thiệu một chat room đơn giản vào năm 1980. Đầu thập niên 80, hệ thống bắt đầu định hình vàphát triển thành dịch vụ cung cấp thông tin trực tuyến đồ sộ với truy cập quay số (dial-up) tính tiền theo phút ở hàng chục thành phố trên toàn nước Mỹ, thậm chí ở cả nước ngoài. Hai nhân tố chính làm CompuServe suy thoái làsự trỗi dậy của dịch vụ AOL dễ sử dụng hơn (về sau AOL đã mua lại CompuServe), vàtất nhiên, Internet.



27. Blizzard World of Warcraft (2004)



Ai có thể nghĩ rằng một game nhập vai trực tuyến nhiều người chơi (MMORPG) dựa trên một trò chơi chiến lược lại có thể thành công đến thế? Chỉ mới 2 năm kể từ khi xuất hiện, tính cả các bản mở rộng vàthành phần phụ thì WoW đã thu hút được tới trên 8 triệu người chơi trên toàn thế giới. Thậm chí nó còn gợi cảm hứng cho bộ phim nhiều tập South Park. WoW chính làgame MMORPG phổ biến nhất từ trước tới nay, bỏ xa các "tiền bối" như Ultima Online vàEverquest. Hiển nhiên, cả hai game trên đã mở đường cho WoW, nhưng mỗi game chỉ có chưa đến 1 triệu người chơi, vàvì thế không thể sánh kịp nó về tầm ảnh hưởng.



28. Aldus PageMaker (1985)



Một trong những triển vọng đầy hứa hẹn của công nghệ điện toán trong những ngày đầu chính làkhả năng xuất bản từ máy tính để bàn, cho phép tất cả chúng ta in ấn tài liệu hướng dẫn, tạp chí vàbáo cáo chuyên nghiệp với các công cụ trực quan (WYSIWYG). Làmột trong những chương trình dàn trang đầu tiên dùng cho máy để bàn, Aldus làlựa chọn hàng đầu trong suốt nhiều năm, cung cấp cho người dùng một phương thức đơn giản để bố trí văn bản, đồ họa vàcác thành phần khác trên cùng trang. Aldus bị Adobe mua lại vào năm 1994. Đến nay, PageMaker vẫn còn được sử dụng (phiên bản 7.) nhưng vị thế của nó đã bị các phần mềm cao cấp QuarkXPress vàAdobe InDesign thay thế từ lâu.



29. HP LaserJet 4L (1993)



Trước khi LaserJet 4L xuất hiện, in ấn một bản sơ yếu lý lịch một cách chuyên nghiệp đồng nghĩa với việc bạn phải mua một chiếc máy in rất to vàrất đắt tiền, hoặc ra phố tìm một cửa hàng in, trả khoản phí đắt đỏ cho từng tờ tài liệu được in ra (thậm chí cả phí in lại nữa, vì trang in đầu tiên không bao giờ nằm ngay ngắn theo ý bạn). Với serie 4L, kỷ nguyên máy in laser cá nhân bắt đầu. Chiếc máy này đủ nhỏ để nằm gọn gàng trên bàn vàcó giá chỉ 849USD, làchiếc máy in laser đầu tiên dưới 1000USD. Ngày nay, dòng máy này vẫn còn được sử dụng trong nhiều văn phòng vàcó giá chỉ khoảng 50USD trên mạng đấu giá eBay.



30. Apple Mac OS X (2001)



Trong lần thứ 10 Macintosh "tái xuất", Apple quẳng bộ lõi giàcỗi của hệ điều hành này qua cửa sổ vàlàm điều không ai dám nghĩ: dùng một thực thi (implementation) của Unix làm lõi cho OS X. Liệu sự phức tạp của một hệ thống chạy trên nền Unix có làm hài lòng những người dùng Mac cố cựu, những người luôn đánh giá cao tính khả dụng vàtrực quan của Apple? Câu trả lời làcó. OS X (phiên bản hiện nay là10.4) đã trở thành một hiện tượng, thành công vượt quá sức tưởng tượng của mọi người. Tính thẩm mỹ của nó trở thành một chuẩn mực cho các hệ điều hành hiện đại. Rất nhiều nhàquan sát cho rằng, giao diện Aero của Microsoft Vista chỉ làmột sự sao chép, cóp nhặt từ giao diện Aqua của OS X.

31. Apple Airport Base Station (1999)



Apple không phải công ty đầu tiên giới thiệu công nghệ Wi-Fi, nhưng "chiếc đĩa bay" Base Station màhọ đưa ra năm 1999 đã thực sự trở thành một biểu tượng đậm nét vàđầy cá tính của việc thưởng thức kết nối không dây.



Apple lànhàtiên phong trong việc tích hợp chuẩn 802.11b vào máy tính xách tay vàtrở thành nhàvô địch trong công nghệ này trước khi các hãng khác nhập cuộc. Ngày nay, sản phẩm Apple Airport Extreme Base Station là"hậu duệ" trực tiếp của công nghệ này.



Mặc dù Apple chỉ làmột thành tố tương đối nhỏ trong lĩnh vực phần cứng mạng, nhưng phiên bản ban đầu của Base Station thực sự có những ảnh hưởng sâu rộng trong những ngày đầu của Wi-Fi vàchính nó đã khởi động cho cuộc đổ bộ vào thế giới không dây như chúng ta đang chứng kiến ngày nay.



32. Nintendo Entertainment System (1985)



Năm 1985, làng game thế giới bước sang năm thứ hai của thời kỳ suy thoái. Đúng lúc đó, vị cứu tinh mang tên NES xuất hiện. Chiếc hộp màu xám nhỏ bé nhưng đầy sức mạnh đưa hàng triệu game thủ vào thế giới của anh em nhàMario trong trò chơi Super Mario Bros, game xuất sắc nhất, có sức lan tỏa vàtầm ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của hệ máy này.



Với NES, Nintendo bắt đầu thời kỳ thống trị lĩnh vực máy chơi game gia đình kéo dài nhiều năm, chủ yếu nhờ vào khả năng "nhập khẩu" gần như hoàn hảo các game kinh điển chơi trên hệ máy thùng, như Super Mario Bros vàDonkey Kong. Ngày nay, sau 22 năm, chúng ta vẫn có thể cảm nhận rõ rệt di sản của NES trong thành công của hệ máy Wii với những nhân vật như Mario vàLink (The Legend of Zelda).



33. Eudora (1988)



Có rất ít phần mềm miễn phí tạo được ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của công nghệ như Eudora của Steve Dorner. Ban đầu chỉ làthành phần của một dự án lập trình class, Eudora trở thành ứng dụng e-mail đầu tiên không dựa trên máy mainframe (tức máy tính cực lớn, cực mạnh vàcực đắt). Điểm đáng ghi nhận ở chương trình này lànó đồng thời đưa ra 2 dòng sản phẩm: miễn phí với các phiên bản gắn quảng cáo vàthu phí với các phiên bản chuyên nghiệp. Chiến lược này đã thúc đẩy một cách có hiệu quả việc xúc tiến thương mại cho sản phẩm.



Được Qualcomm mua vào năm 1991, ngày nay Audora vẫn tiếp tục được phát triển (đang ở phiên bản 7.1) vàđược hỗ trợ trên rất nhiều hệ máy. Các phiên bản trong tương lai của nó sẽ sử dụng mã nguồn mở của Thunderbird làm lõi phát triển.



34. Sony Handycam DCR-VX1000 (1995)



Video gia đình từng rất phổ biến từ nhiều năm trước khi chiếc Handycam DCR-VX1000 ra đời, nhưng đây làsản phẩm đưa máy quay phim ào ạt tiến vào kỷ nguyên số. Sử dụng băng kỹ thuật số MiniDV, chiếc máy quay của Sony khiến việc biên tập video trên PC trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Nhờ đó, những hình ảnh trầy xước của băng VHS vàHi-8 nhanh ***ng trở thành chuyện cổ tích. Sản phẩm ban đầu, với giá 4.000USD, cung cấp những hình ảnh có độ phân giải chỉ 0,41 Megapixel, nhưng mọi thứ dần được cải thiện với thời gian. Sony đưa ra sản phẩm đạt độ phân giải 1 Megapixel vào năm 1999 vàđạt chất lượng độ phân giải cao (high-definition) vào năm 2004. Nhu cầu sử dụng MiniDV giờ đây đang giảm vànó dần được thay thế bằng các công nghệ ưu việt hơn. Tuy nhiên, Sony vẫn tiếp tục đưa ra các máy quay mới sử dụng công nghệ này.



35. Broderbund The Print Shop (1984)



Có một thời, cách duy nhất để chuẩn bị một buổi liên hoan làin những tấm băng rôn khổng lồ trên những cuộn giấy lớn, "ngốn" sạch mực trong chiếc máy in kim. Từ những họa tiết hoa văn, đường diềm tới những tấm thiệp tự tạo ngô nghê, The Print Shop mang lại vô số cách thức cho người dùng Apple II chứng minh ràng máy tính có thể làm bất cứ những gì vốn thuộc về sáp vẽ vàcòn hơn thế nữa. Nói tóm lại, đây chính làứng dụng bán chạy... vô dụng đầu tiên trên thế giới. Tin hay không tùy bạn, nhưng Print Shop vẫn sống dai dẳng đến ngày nay: Phiên bản dành cho PC đang ở serie phát hành thứ 22.



36. McAfee VirusScan (1990)



Ở đâu có PC, ở đó có virus. Nhưng phải đến tận những ngày đầu của Windows 95 thì phần mềm diệt virus mới trở nên không thể thiếu. Vào thời điểm đó, McAfee VirusScan làlựa chọn hàng đầu trong việc phòng chống virus. Năm 1997, McAfee mua lại hãng Dr. Solomon's Software vàthông qua đó sở hữu một trong những engine diệt virus mạnh nhất lúc bấy giờ. Vàmặc dù các phiên bản gần đây của không được đón nhận nồng nhiệt như những thế hệ trước (McAfee dường như đang quan tâm hơn đến việc xúc tiến các sản phẩm bảo mật khác hơn làngăn chặn các đoạn mã khai thác lỗ hổng), VirusScan vẫn làmột phần mềm chống virus khá tốt.



37. Commodore Amiga 1000 (1985)



Chiếc Amiga của Commodore có nhiều tín đồ trung thành hơn cả so với tất cả các hệ thống máy tính đã thuộc về quá khứ, dù cho nó chưa bao giờ làmột sản phẩm bán chạy, thậm chí cuối cùng còn làm công ty phá sản vào năm 1994. Nhưng đó làmột cái chết trong danh dự. Amiga đi trước thời đại nhiều năm so với các anh em của nó, kể cả PC vàMacintosh, với việc sử dụng bộ vi xử lý Motorola 6800 dùng cho hệ máy Mac và1 CPU riêng cho video, cho phép nó thể hiện hoạt ảnh 3D, duy trì tốc độ tối đa cho video vàrất nhiều tính năng độc đáo khác. Khả năng xử lý âm thanh cao cấp của nó mang lại danh hiệu "chiếc máy tính đa phương tiện" xuất sắc nhất. Tuy nhiên, có lẽ người dùng thời đó chưa sẵn sàng cho những tiện ích thế hệ mới như thế.



38. ChipSoft TurboTax (1985)



TurboTax (hiện thuộc quyền sở hữu của Intuit) thực sự làmột cứu tinh cho công dân Mỹ, giúp họ đương đầu với vô số bảng biểu rối rắm, phức tạp của hệ thống thuế để thực hiện thủ tục hoàn thuế thu nhập (vào tuần đầu tháng tư hàng năm). Gói phần mềm tính thuế này hướng dẫn người dùng thực hiện từng bước của quy trình hoàn thuế, giúp cuộc sống của dân Mỹ trở nên dễ thở hơn. Mỗi năm phát hành một phiên bản mới vào giữa tháng 11, TurboTax trở thành một phần không thể thiếu của rất nhiều người dân Mỹ.



39. Mirabilis ICQ (1996)



Tập trung vào giao tiếp nhanh vàngắn, tin nhắn nhanh (IM) làcông nghệ dành cho những người yêu thích sự đơn giản. Sự cất cánh của công nghệ này có phần đóng góp rất lớn của ICQ do hãng Mirabilis (Israel) phát triển. Trong một thời gian dài, ICQ làchọn lựa duy nhất trong IM, với số lượng thành viên đăng ký lên đến hàng trăm triệu. Tuy nhiên, hệ thống nhận dạng người dùng bằng số thập phân chính làđiểm yếu cốt tử của chương trình này. Đến khi nó có thể dễ dàng ghép các con số vào tài khoản e-mail, người dùng đã chuyển sang các lựa chọn khác. AOL mua ICQ năm 1998 vàvẫn hỗ trợ ứng dụng này, dù AOL Instant Messenger của họ đang chiếm phần lớn thị phần.



40. Creative Labs Sound Blaster 16 (1992)



Trước khi có Sound Blaster, âm thanh phát ra từ máy tính cá nhân chỉ giới hạn trong một vài tiếc bíp, tạch... đơn giản để báo cho người chơi biết rằng họ đã đâm trúng con yêu tinh trong game hoặc chiếc PC đang trở chứng. Dòng sản phẩm Sound Blaster đã thay đổi điều đó đến tận gốc bằng cách đưa khả năng âm thanh thực sự vào máy tính. Sound Blaster 16, một trong những mẫu đầu tiên của serie, có khả năng xử lý âm thanh 16bit, giúp âm thanh (vàâm nhạc) lần đầu tiên có khả năng lưu chuyển trên PC. Ngày nay, bộ xử lý âm thanh tích hợp đã trở nên phổ biến, nên khi nhắc đến dòng sản phẩm Sound Blaster, người ta thường nghĩ tới những chiếc PC cao cấp chuyên dùng để chơi game. Các hậu duệ trực tiếp của Sound Blaster 16 hiện nay như Audigy vàX-Fi có khả năng xử lý đáng kinh ngạc, tạo ra những âm thanh đa kênh chất lượng cao, khơi gợi sự hào hứng của giới game thủ.

41. Canon EOS Digital Rebel (2003)



Với sản phẩm Digital Rebel, Canon đưa công nghệ máy ảnh số cao cấp đến với người tiêu dùng bình dân. Có độ phân giải 6,3 megapixel, EOS làchiếc máy ảnh kỹ thuật số sử dụng ống kính rời (ống kính phản xạ đơn - SLR) đầu tiên đạt mức giá dưới 1.000 USD.



Dòng máy Rebel có lẽ cũng làchiếc máy ảnh được hack nhiều nhất: Những chuyên gia "độ" thông minh đã tạo ra phần sụn (firmware) mới vàthậm chí viết cả các ứng dụng DOS cho nó. Đến nay, Rebel vẫn làmột sản phẩm chủ lực của Canon, với chiếc EOS Digital Rebel Xti được nhiều nhiếp ảnh gia lựa chọn.



42. Epson MX-80 (1980)



Trước đây, tại các văn phòng, ngoài tiếng réo của modem khi thực hiện kết nối quay số, nhân viên công sở còn phải chịu đựng tiếng rẹt rẹt, rú rít của máy in kim. Máy in kim ngự trị thế giới in ấn trong nhiều năm, vàđại diện tiêu biểu của nó làEpson MX-80. Khá rẻ, tương đối bền vàđủ nhanh (khoảng 1 trang mỗi phút), MX-80 trở thành sản phẩm bán chạy nhất, chiếm tới 60% thị phần máy in kim, theo tuyên bố của Epson. Dòng máy này phổ biến đến nỗi, sau 27 năm, giờ đây bạn vẫn có thể mua ruy băng in dành cho nó với giá 6 USD/ hộp.



43. Central Point Software PC Tools (1985)



Mua từng ứng dụng một cho PC làviệc vừa tốn kém, vừa khó chịu. PC Tools của Central Point không hẳn làmột cuộc cách mạng, nhưng bằng cách tập hợp vào một gói duy nhất hơn 10 ứng dụng hữu ích (diệt virus, sao lưu dự phòng, phục hồi tập tin lỡ xóa hoặc lỡ forrmat...), bộ công cụ này mang lại cho người dùng am hiểu công nghệ một "cửa tiệm" tất cả trong một để xử lý các trục trặc trên máy tính DOS. Sau phiên bản gây thất vọng năm 1991, Central Point bị Symantec mua lại vàcuối cùng bị giải thể. Những gì PC Tools khởi xướng đã được Norton SystemWorks kế tục.



[/b]44. Apple HyperCard (1987)



Được sáng tạo bởi thiên tài phần mềm của Apple Bill Atkinson, HyperCard làmột môi trường lập trình khá đặc biệt. Nó cung cấp cho người dùng một lượng lớn các "tấm thẻ" rỗng, trên đó có thể bổ sung văn bản, đồ họa vàvideo dung lượng thấp.



Tính năng quan trọng nhất lànó cho phép các "tấm thẻ" đó liên kết với nhau, gần như một phiên bản offline của một website - nhiều năm trước khi web ra đời. Một số đặc điểm thiết kế của HyperCard vẫn còn tồn tại trong các trình duyệt ngày nay, chẳng hạn con trỏ dùng để biểu thị vànhận biết các liên kết. Thậm chí, trò chơi nổi tiếng Myst cũng được tạo nên bằng Hypercard.



45. Red Hat Linux (1994)



Lựa chọn một sản phẩm Linux tiêu biểu khá khó. Trong những năm qua có hàng trăm sản phẩm ra đời, mặc dù trong số đó chỉ có một số ít đạt tới mức xuất sắc. Red Hat được đánh giá có tầm quan trọng lớn lao bởi nó bắt nguồn (dù chỉ mang tính thăm dò) cho trào lưu cải tạo Linux trở nên thân thiện với người dùng hơn vàdễ cài đặt hơn. Mặc dù việc phát triển Red Hat đã dừng lại từ năm 2003, nó vẫn trực tiếp sản sinh ra nhiều "hậu duệ", như Ubuntu, sản phẩm hướng tới việc phổ biến Linux trên máy tính để bàn.



46. Adaptec Easy CD Creator (1996)



Việc ghi đĩa quang ngày nay được xem như việc đương nhiên, chỉ việc kéo thả tập tin vào biểu tượng ổ ghi DVD-R làxong, nhưng trong những ngày đầu xuất hiện của đĩa ghi CD, việc burn một chiếc đĩa đồng nghĩa với việc phải sử dụng phần mềm của hãng thứ ba vàáp dụng phương pháp thử sai rất nhiều mới có thể thành công. Easy CD Creator giúp người dùng không còn phải mò mẫm khi burn CD, vàgần như trở thành một chuẩn ghi CD cho đến khi Windows XP ra đời. Sản phẩm phái sinh trực tiếp của nó, Roxio Easy Media Creator 9, đa năng hơn rất nhiều, nhưng rất nhiều người dùng vẫn dành nhiều thiện cảm hơn cho bản gốc.



47. PC-Talk (1982)



PC-Talk làmột chương trình đầu cuối cho phép bạn thực hiện kết nối quay số (dial-up) vào các hệ thống bảng tin (bulletin board) vànhững dịch vụ trực tuyến đầu tiên như CompuServe. Tuy nhiên, chương trình nổi tiếng hơn vì một lý do khác: Nó được xem lànhân tố tạo nên hình mẫu phân phối phần mềm chuyển nhượng (shareware). Khi Adrew Fluegelman (sáng lập viên của PC World) phát hành sản phẩm của mình, ông cho phép người dùng tự do download về dùng thử, nếu chấp nhận được thì họ mới thanh toán tiền. Mặc dù tác giả PC-Talk gọi sáng tạo của mình làphần mềm miễn phí (freeware), nhưng từ shareware lại nhanh ***ng trở thành thuật ngữ được chấp nhận rộng rãi cho mô hình kinh doanh này. Ngày nay, có rất nhiều website được xây dựng chủ yếu cho việc download phần mềm.



48. Sony Mavica MVC-FD5 (1997)



Trong những ngày đầu ảnh số xuất hiện, đưa được hình từ máy ảnh ra máy tính làmột thách thức lớn. Thời đó chưa có khe cắm thẻ nhớ, chưa có kết nối không dây Bluetooth, vàthậm chí chẳng có cả USB. Mavica MVC-FD5 của Sony làmột sáng tạo thiên tài cho phép trao đổi ảnh với máy ảnh thông qua một đĩa mềm. Người dùng có thể đưa vào đĩa 8 tấm ảnh có độ phân giải 640 x 480 pixel, khá tốt so với bấy giờ. Dòng sản phẩm Mavica ngày nay thậm chí còn tích hợp cả ổ ghi DVD.



49. Microsoft Excel (1985)



Nhiều người sẽ lưỡng lự khi bỏ phiếu cho phần mềm này, vì kể từ khi ra đời đến nay, Microsoft Excel chứa đầy lỗi phần mềm vàlỗ hổng bảo mật. Tuy nhiên, có một thực tế khó tin làExcel đã phát hành trên hệ máy Macintosh tận 2 năm trước khi có mặt trên PC. Sau khi được đưa vào Windows, nó đã "tiễn chân" Lotus 1-2-3 chỉ trong vòng vài năm, chủ yếu nhờ vào ngôn ngữ lập trình rất mạnh. Ảnh hưởng của phần mềm này mạnh đến nỗi tất cả các phần mềm khác trong bộ ứng dụng Microsoft Office đều được thiết kế lại để có dáng vẻ giống với Excel.



50. Northgate OmniKey Ultra (1987)



Trong các bàn phím máy tính, OmniKey của Northgate được nhắc tới như một huyền thoại: To, nặng vàbền quá sức tưởng tượng - một sự tương phản đậm nét với những bàn phím mỏng mảnh hiện hành. Ngày nay, Fan hâm mộ của Northgate vẫn sử dụng loại bàn phím này (hoặc bản sao của nó, Creative Vision Avant Stellar). Thậm chí những phiên bản ban đầu của nó vẫn thường được bán với giá trên 100 USD trên mạng đấu giá eBay. Có thể nhiều người sẽ thắc mắc, nếu sản phẩm tốt như thế thì tại sao Northgate lại phá sản vào năm 1997?. Có lẽ làvì sản phẩm của họ không chịu hỏng hóc đủ thường xuyên để được người dùng mua cái mới về thay thế.

wantedcool
wantedcool
Binh nhất 4
Binh nhất 4

Tổng số bài gửi : 98
Join date : 26/06/2010
Age : 30

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết